Cụ Bùi Bằng Đoàn sinh ngày 19/9/1889 trong một gia đình nhà nho tại làng Liên Bạt, huyện Ứng Hòa, tỉnh Hà Đông (nay thuộc thành phố Hà Nội) - làng quê có truyền thống văn hiến, với những danh nhân khoa bảng được ghi trong sử sách. Cụ đã có những công lao, đóng góp to lớn đối với sự nghiệp cách mạng dân tộc và với Quốc hội, là tấm gương sáng về thanh liêm, chính trực để thế hệ sau học tập và noi theo.
Cụ Bùi Bằng Đoàn sinh ra trong một gia đình có truyền thống nho học. Do cha mẹ đều mất sớm, ngay từ nhỏ, Bùi Bằng Đoàn được người chú dượng là Dương Lâm (tức cụ Thiếu bảo Vân Đình lúc đó làm Tham tri Nha Kinh lược Bắc Kỳ) đưa về nuôi dưỡng và dạy học chữ Hán.
Năm Bính Ngọ (1906), Bùi Bằng Đoàn đỗ cử nhân. Năm 1911, Bùi Bằng Đoàn tốt nghiệp trường Hậu Bổ, Hà Nội, được bổ làm Tri huyện, sau đó làm Tri phủ Xuân Trường (tỉnh Nam Định), Án sát tỉnh Bắc Ninh; Tuần phủ các tỉnh Cao Bằng, Ninh Bình…
Trước Cách mạng tháng Tám, làm quan ở triều đại phong kiến, cụ Bùi Bằng Đoàn nổi tiếng là vị quan thanh liêm, chính trực, thương dân. Khi làm Tri phủ Xuân Trường (tỉnh Nam Định), cụ Bùi Bằng Đoàn đã đề xuất và tổ chức thực hiện việc đắp đê Bạch Long ngăn nước mặn - một công trình trị thủy lớn, có ý nghĩa vô cùng quan trọng về dân sinh và kinh tế nông nghiệp cho nhân dân địa phương.
Khi đang làm Tri phủ Nghĩa Hưng, nhờ tinh thông Pháp văn, cụ Bùi Bằng Đoàn được mời lên Hà Nội làm thông ngôn cho phiên tòa đại hình xử vụ án cụ Phan Bội Châu. Với tính cách cương trực, bênh vực lẽ phải, cụ Bùi Bằng Đoàn đã phiên dịch rõ ràng, trung thực những lời nói, lý lẽ đanh thép của cụ Phan Bội Châu, để rồi sau đó tòa án không khép được cụ Phan vào án chung thân mà giảm xuống hình thức “an trí ở Huế”.
Năm 1925, trước việc báo chí phản ánh cảnh phu điền ở Nam Kỳ bị bóc lột dã man, Chính phủ Nam Triều đã cử Bùi Bằng Đoàn vào thanh tra các đồn điền cao su của Pháp tại Nam Kỳ. Là người công minh, liêm khiết, mẫn cán và tác phong làm việc cẩn trọng, khoa học, cụ Bùi Bằng Đoàn đã tiến hành điều tra trực tiếp, thấu đáo tại 45 đơn vị đồn điền cao su thuộc các tỉnh: Biên Hòa, Bà Rịa, Thủ Dầu Một, Tây Ninh, Chợ Lớn và Gia Định. Kết thúc cuộc điều tra, cụ đã viết báo cáo, kiến nghị dày 100 trang bằng tiếng Pháp nêu trung thực, khách quan, công minh và đầy đủ những điều vô lý trong chính sách đối với phu đồn điền. Nhờ đó đã được nhà đương cục lúc bấy giờ chấp nhận giảm thiểu những chế độ hà khắc đối với công nhân đồn điền cao su thời đó.
Khi làm Án sát tỉnh Bắc Ninh, cụ được mời tham dự phiên tòa Đề hình xét xử đồng chí Nguyễn Văn Cừ, Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Đông Dương. Khâm phục tinh thần cách mạng của đồng chí Nguyễn Văn Cừ, nên khi nghị án thực dân Pháp đã định án tử nhưng cụ đã tìm mọi cách để giảm tội tử hình xuống khổ sai đày đi Côn Đảo.
Trên cương vị Thượng thư bộ Hình, cụ Bùi Bằng Đoàn đã có công lớn trong việc cải cách tư pháp, sửa đổi luật pháp, bãi bỏ nhiều quy định lỗi thời của hệ thống tư pháp cổ xưa trên 17 tỉnh, đạo thuộc Trung Kỳ. Đồng thời, cụ đã tấu trình và được nhà vua chấp thuận việc biên soạn, ban hành một số luật mới có nội dung tiến bộ, tổ chức các tòa án và quy định cơ chế tư pháp tân tiến, lựa chọn và đào tạo thẩm phán và đội ngũ nhân viên chuyên môn nghiệp vụ chuyên trách...
Trong thời gian làm quan đại thần trong Triều Nguyễn ở Huế, cụ nổi tiếng là vị quan đức độ, thanh liêm, chính trực. Cụ được nhà vua trọng dụng, các quan trong triều kính trọng, nhân viên và các quan chức dưới quyền ngưỡng mộ, được nhân dân kính trọng, tin cậy.
Cách mạng tháng Tám thành công, đến tháng 11/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tự tay đánh máy bức thư trân trọng mời cụ tham gia việc nước. Cụ Bùi Bằng Đoàn đã nhận lời tham gia Ủy ban kiến thiết quốc gia; tham gia Ban Cố vấn riêng của Chủ tịch Hồ Chí Minh; rồi trở thành Trưởng ban Thanh tra đặc biệt của Chính phủ, Trưởng ban Thường trực Quốc hội...
Trên cương vị Trưởng ban Thường trực Quốc hội, cụ Bùi Bằng Đoàn đã tham dự các cuộc họp của Hội đồng Chính phủ, tham gia bàn bạc góp ý kiến các chủ trương, chính sách lớn của Chính phủ và tham gia giám sát các công việc của Chính phủ thực hiện công cuộc kháng chiến kiến quốc. Với tinh thần trách nhiệm cao, cụ đã tham gia đóng góp cải tổ nhân sự của Chính phủ năm 1947, chỉ đạo các đoàn đại biểu Quốc hội địa phương, lấy nguyện vọng nhân dân góp ý cho Quốc hội và Chính phủ trong lãnh đạo kháng chiến. Cụ đã thay mặt Quốc hội tham dự các sự kiện trọng đại của đất nước.
Trên cương vị và trọng trách nào do Chủ tịch Hồ chí Minh và Chính phủ giao, cụ Bùi Bằng Đoàn cũng thể hiện là một người thanh liêm, chính trực, một lòng đi theo cách mạng.
Từ Thượng thư bộ Hình Nam triều nổi tiếng thanh liêm, chính trực, cụ Bùi Bằng Đoàn đã tham gia chính quyền cách mạng một cách tự nguyện và một lòng đi theo chính quyền cách mạng. Tấm lòng tận trung với nước, tận hiếu với dân của cụ Bùi Bằng Đoàn là một tấm gương sáng để chúng ta kính trọng và noi theo.
Tháng 8/1948, vì bị bệnh nặng, Chủ tịch Hồ Chí Minh ra lệnh đưa cụ về Liên khu 3 chữa trị. Ngày 13/4/1955, cụ qua đời tại Hà Nội, hưởng thọ 66 tuổi. Do những công lao, cống hiến to lớn đối với dân tộc, cụ Bùi Bằng Đoàn đã được Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tặng thưởng Huân chương Độc lập hạng Nhất, Huân chương Kháng chiến chống Pháp hạng Nhất.
Kỷ niệm 130 năm Ngày sinh cụ Bùi Bằng Đoàn là dịp để ôn lại cuộc đời, sự nghiệp và tôn vinh công lao, cống hiến to lớn của cụ đối với đất nước; qua đó giáo dục truyền thống yêu nước, niềm tự hào, tự tôn đất nước và tinh thần đại đoàn kết toàn dân tộc; cổ vũ, động viên các tầng lớp nhân dân tích cực học tập, lao động, công tác và chiến đấu, góp phần thực hiện thắng lợi các mục tiêu, nhiệm vụ xây dựng, phát triển và bảo vệ đất nước. Noi gương cụ Bùi Bằng Đoàn, toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta nỗ lực phấn đấu, quyết tâm thực hiện thắng lợi Nghị quyết đại hội Đảng bộ các cấp và Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng./.
Tác giả: Hương Lan (tổng hợp)
Nguồn tin: http://backan.gov.vn
Ý kiến bạn đọc
Những tin mới hơn
Những tin cũ hơn