ĐỀ CƯƠNG TUYÊN TRUYỀN KỶ NIỆM 80 NĂM NGÀY THÀNH LẬP CHÂU TRƯNG VƯƠNG (CHÂU CHỢ RÃ) - CHÍNH QUYỀN CẤP HUYỆN ĐẦU TIÊN CỦA TỈNH BẮC KẠN (30/3/1945 - 30/3/2025)

Thứ ba - 11/03/2025 03:22

I. BỐI CẢNH LỊCH SỬ RA ĐỜI VÀ Ý NGHĨA SỰ KIỆN
1. Bối cảnh lịch sử
Bắc Kạn là tỉnh miền núi thuộc khu vực Đông Bắc Việt Nam, là đầu mối trung chuyển giữa miền ngược - miền xuôi; giữa biên giới Đông Bắc với thủ đô Hà Nội và các tỉnh trung du, đồng bằng Bắc Bộ. Do vậy, Bắc Kạn có vị trí quan trọng trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Cuối năm 1944, đầu năm 1945, Chiến tranh thế giới lần thứ II bước vào giai đoạn kết thúc. Tại Mặt trận châu Á - Thái Bình Dương, phạm vi kiểm soát của phát xít Nhật ngày càng bị thu hẹp. Con đường biển đi từ Nhật xuống các thuộc địa của Nhật ở Đông Nam Á bị quân Đồng minh khống chế. Do vậy, Nhật quyết giữ bằng được Đông Dương. Trong khi đó, thực dân Pháp ở Đông Dương ráo riết chuẩn bị kế hoạch hất cẳng Nhật.

Từ dự đoán tình hình trên, ngay trong đêm 9-3-1945, Ban Thường vụ Trung ương Đảng họp Hội nghị mở rộng tại làng Đình Bảng (Từ Sơn, Bắc Ninh), dưới sự chủ trì của Tổng Bí thư Trường Chinh. Cùng thời điểm này, đúng như dự đoán của Đảng, phát xít Nhật đã nổ súng làm cuộc đảo chính lật đổ Pháp để độc chiếm Đông Dương. Ngày 12-3-1945, Hội nghị đã thông qua bản Chỉ thị “Nhật - Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta”, trên cơ sở nhận định: “Sau cuộc đảo chính này, đế quốc phát xít Nhật là kẻ thù chính - kẻ thù cụ thể trước mắt - duy nhất của nhân dân Đông Dương”, Chỉ thị của Ban Thường vụ Trung ương Đảng chủ trương thay khẩu hiệu: Đánh đuổi Nhật, Pháp bằng khẩu hiệu: Đánh đuổi phát xít Nhật và phát động cao trào chống Nhật, cứu nước mạnh mẽ làm tiền đề cho cuộc Tổng khởi nghĩa giành chính quyền trong cả nước. Ngày 10-3-1945, Ban Việt Minh liên tỉnh Cao - Bắc - Lạng họp Hội nghị tạCao Bằng, quyết định:
1. Đánh đổ chế độ thống trị của Pháp ở nông thôn, rồi tùy nơi sẽ thành lập chính quyền nhân dân từ cấp xã, châu, huyện, phủ đến cấp tỉnh.
2. Phân phối cán bộ của đội Tuyên truyền về cùng các đội vũ trang địa phương tổ chức thêm những đơn vị Giải phóng quân, chuẩn bị trực tiếp đánh Nhật.
3. Phá hoại đường sá, cầu cống; dân chúng tích cực làm vườn không nhà trống ở mọi nơi.
4. Đối với quân đội Pháp bị Nhật đánh đuổi, chủ trương không khiêu chiến trong lúc họ rút lui, mà tích cực kêu gọi họ cùng ta thành lập mặt trận chống Nhật.
5. Ngày 15-3-1945, Tổng bộ Việt Minh phát hịch “Kháng Nhật cứu nước”, kêu gọi toàn thể quốc dân đồng bào đứng lên “… nhằm theo lá cờ đỏ sao vàng 5 cánh của Việt Minh”, “Đánh đuổi giặc Nhật ! Tiễu trừ Việt gian, Pháp gian và Hán gian”, “Dựng lên một nước Việt Nam hùng cường, tự do và độc lập”. Trước tình hình đó, Chi bộ Chí Kiên lãnh đạo các đội tự vệ chiến đấu tiến hành tước súng của lĩnh dõng ở một số nơi. Trên đường rút chạy sang Trung Quốc, nhiều toán lính Pháp đi qua các xã phía Bắc Chợ Rã. Ngày 19-3-1945, một toán lính Pháp tổ chức cướp bóc và nổ súng vào lực lượng vũ trang cách mạng ở Pò Mò (xã Bằng Thành). Ngay lập tức, lực lượng vũ trang khu Thiện Thuật phối hợp với tự vệ địa phương tổ chức bao vây đánh địch quyết liệt. Trước nguy cơ bị tiêu diệt, quân Pháp buộc phải buông súng đầu hàng, quân ta đã thu được nhiều chiến lợi phẩm, trong đó có gần 30 súng các loại. Thực hiện chỉ thị của Trung ương Đảng và quyết định của Hội nghị Ban Việt Minh liên tỉnh, ngày 20-3-1945, các mũi tiến công của đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân do đồng chí Võ Nguyên Giáp chỉ huy tiến đến Ngân Sơn và sau đó phân phối lực lượng chia thành các hướng đi trước để phối hợp với cơ sở cách mạng và quần chúng nhân dân phát động tấn công (Một trung đội do đồng chí Hoàng Văn Thái chỉ huy tiến theo hướng Thượng Ân, Cốc Đán, Hà Hiệu sang Chợ Rã; một trung đội do đồng chí Đức Long chỉ huy tiến vào Đức Vân, Thượng Quan, Thuần Mang, xuống Phủ Thông). Được sự ủng hộ, tiếp sức của quần chúng nhân dân và đơn vị Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân, lực lượng tự vệ tổng Chí Kiên mở rộng các hoạt động trừ gian, diệt các đồn bốt lẻ của địch, như Kéo Lẻng, Bằng Khẩu… Đến ngày 21-3-1945, quân cách mạng làm chủ hoàn toàn Ngân Sơn.
Một cuộc mít tinh lớn được tổ chức ở châu lỵ, đại diện quân cách mạng tuyên bố xóa bỏ hoàn toàn bộ máy thống trị và ách nô dịch của thực dân Pháp cùng tay sai. Ủy ban Nhân dân Cách mạng lâm thời các xã lần lượt được thành lập, nhanh chóng đi vào hoạt động.
Tại Chợ Rã, sau chiến thắng tại Pò Mò (xã Bằng Thành), trên đà thắng lợi, nhân dân Chợ Rã tiến lên đánh chiếm đồn Pác Nặm, xóa bỏ chính quyền địch ở các xã phía bắc. Ngày 21-3-1945, bộ phận đi trước của Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân tiến vào châu Chợ Rã, hoảng sợ trước thanh thế của quân cách mạng, đội ngũ chức dịch từ tổng xuống các xã vội vã đầu hàng. Ngày 22-3-1945, đại bộ phận đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân dưới sự chỉ huy của đồng chí Võ Nguyên Giáp từ Ngân Sơn qua Hà Hiệu tiến sang châu lỵ Chợ Rã. Lúc này, tàn binh Pháp đang ẩn náu ở khu vực hồ Ba Bể để tìm đường chạy trốn ra biên giới, được lực lượng cách mạng thuyết phục, quân Pháp buộc phải thương lượng và chấp nhận yêu cầu không quấy nhiễu nhân dân và phối hợp cùng ta đánh Nhật. Ngày 23-3-1945, châu lỵ Chợ Rã được hoàn toàn giải phóng. Ngày 24-3-1945, một cuộc mít tinh trọng thể được tổ chức tại trung tâm châu lỵ với sự tham gia của đông đảo quần chúng nhân dân, đại diện Việt Minh, đồng chí Võ Nguyên Giáp tuyên bố xóa bỏ chính quyền của thực dân, phong kiến. Quần chúng nhân dân tổ chức đốt thẻ thuế thân, tịch thu bằng, triện của các chức dịch, vũ khí của lính dõng địa phương. Một trung đội tự vệ của châu được thành lập để giữ gìn trật tự trị an, bảo vệ thành quả cách mạng. Ngày 30-3-1945, trước tình hình phát triển mới và hết sức thuận lợi của cách mạng, đồng chí Võ Nguyên Giáp đã quyết định cho thành lập Ủy ban nhân dân lâm thời Châu Trưng Vương (Châu Chợ Rã). Ủy ban nhân dân lâm thời do ông Hoàng Văn Đàm, người dân tộc Tày làm Chủ tịch. Tham gia Ủy ban còn có: Hoàng Văn Phủ (dân tộc Tày) làm Phó Chủ tịch, các ủy viên là: Triệu Văn Hiến (dân tộc Dao), Chu Khắc Xứng (dân tộc Kinh).
2. Ý nghĩa lịch sử
Sự ra đời của chính quyền Châu Trưng Vương (Châu Chợ Rã) là sự kết tinh truyền thống yêu nước của dân tộc Việt Nam nói chung và nhân dân các dân tộc Chợ Rã nói riêng. Là đỉnh cao trong phong trào cách mạng của nhân dân các dân tộc trong huyện trải qua mấy chục năm bền bỉ đấu tranh chống thực dân phong kiến và bè lũ tay sai.
Trong giai đoạn đấu tranh giành chính quyền, Bắc Kạn là địa phương được đồng chí Võ Nguyên Giáp chủ trì cuộc mít tinh trọng thể tuyên bố thành lập chính quyền cấp huyện tại châu Trưng Vương vào ngày 30-3-1945.
Việc thành lập chính quyền cấp huyện - Ủy ban nhân dân lâm thời châu Trưng Vương (châu Trưng Vương là tên cách mạng của châu Chợ Rã; nay là huyện Ba Bể) là tiền đề quan trọng, đánh dấu sự trưởng thành lớn mạnh trong phong trào cách mạng của tỉnh, góp phần thắng lợi trong cao trào kháng Nhật cứu nước và tiến tới Tổng khởi nghĩa tháng Tám năm 1945, đồng thời cũng để lại nhiều bài học quý báu về công tác tuyên truyền, vận động, về việc lãnh đạo nhân dân giành chính quyền, bảo vệ chính quyền cách mạng, cũng như việc xây dựng các tổ chức chính trị, xây dựng lực lượng vũ trang địa phương,...
II. NHỮNG THÀNH TÍCH ĐẠT ĐƯỢC TRONG 80 NĂM XÂY DỰNG, CHIẾN ĐẤU VÀ TRƯỞNG THÀNH
1. Thành tích của Châu Chợ Rã (huyện Ba Bể)
Sự ra đời của chính quyền Châu Chợ Rã đánh dấu vai trò quan trọng trong lịch sử phong trào đấu tranh cách mạng của huyện. Ngay sau khi thành lập, tổ chức Đảng, chính quyền đã bám sát các chỉ thị, nghị quyết của Trung ương Đảng, Tỉnh ủy, lãnh đạo cán bộ, đảng viên và nhân dân các dân tộc nêu cao tinh thần cách mạng, vượt qua gian khổ, hy sinh, quyết tâm đánh bại mọi âm mưu, thủ đoạn của kẻ thù, góp phần giành lại độc lập, tự do cho Tổ quốc.
Ngày 6-1-1946, nhân dân các dân tộc Chợ Rã sôi nổi tham gia bầu cử Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp. Ủy ban nhân dân huyện Chợ Rã chính thức được thành lập, do đồng chí Vi Văn Khóa làm Chủ tịch. Sự kiện trên củng cố những thành quả của Cách mạng Tháng Tám, củng cố chính quyền cách mạng của nhân dân Chợ Rã.
Kháng chiến toàn quốc bùng nổ, đồng chí Nông Văn Quang-Tỉnh ủy viên, được cử phụ trách công tác Đảng huyện Chợ Rã, giữ cương vị Bí thư Huyện ủy lâm thời, lãnh đạo toàn diện mọi mặt công tác trong toàn huyện.
Đảng bộ, chính quyền Chợ Rã đã lãnh đạo nhân dân các dân tộc tiến hành cuộc vận động tiễu phỉ, củng cố chính quyền, đẩy mạnh sản xuất, phát triển văn hoá giáo dục, ra sức đóng góp sức người, sức của cho cuộc kháng chiến của dân tộc đi đến thắng lợi. Trong kháng chiến chống thực dân Pháp, lực lượng vũ trang và nhân dân các dân tộc châu Chợ Rã đã góp phần đánh bại quân Pháp tiến công căn cứ địa Việt Bắc, bảo vệ các cơ quan Trung ương và tỉnh, góp phần xứng đáng vào cuộc kháng chiến chống Pháp. Một thành tích nổi bật nữa của Chợ Rã là đấu tranh chống phỉ suốt 6 năm, làm tan rã hoàn toàn nạn thổ phỉ vào tháng 11-1953.
Với Hiệp định Giơnevơ được ký kết, Chợ Rã cũng như miền Bắc hoàn toàn giải phóng; nhưng ở miền Nam, đế quốc Mỹ từng bước thay chân Pháp, dựng lên chính quyền tay sai, âm mưu chia cắt nước ta lâu dài. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, cùng với nhân dân miền Bắc, Đảng bộ, chính quyền đã đoàn kết, lãnh đạo các tầng lớp nhân dân trong huyện đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội, đồng thời tích cực chi viện sức người, sức của cho cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước đến ngày thắng lợi hoàn toàn.
Đại thắng Mùa xuân năm 1975 kết thúc sự nghiệp chống Mỹ cứu nước, Đảng bộ, chính quyền và nhân dân các dân tộc Chợ Rã bắt tay vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Năm 1978, huyện Chợ Rã sáp nhập vào tỉnh Cao Bằng. Năm 1984, huyện Chợ Rã đổi tên thành huyện Ba Bể. Trong 10 năm (1975-1985), Đảng bộ, chính quyền và nhân dân Ba Bể đã hoàn thành xuất sắc 2 nhiệm vụ chiến lược: tiếp tục đẩy mạnh sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, đồng thời giữ vai trò là hậu phương lớn cho cuộc chiến tranh bảo vệ biên cương Tổ quốc.
Từ sau Đại hội VI của Đảng (năm 1986), cả nước bước vào thời kỳ Đổi mới, trước hết là đổi mới kinh tế - xã hội. Quán triệt đường lối đổi mới của Đảng và các nghị quyết của Tỉnh ủy, Đảng bộ và chính quyền huyện Ba Bể đã phát huy tinh thần tự chủ, sáng tạo, tiềm năng của địa phương, từng bước xây dựng quê hương Ba Bể ngày càng giàu đẹp. Ngày 1-1-1997, tỉnh Bắc Kạn được tái lập, huyện Ba Bể thuộc tỉnh Bắc Kạn, Ba Bể là huyện lớn và đông dân bậc nhất của tỉnh Bắc Kạn với 26 đơn vị hành chính. Ngày 28-5-2003, Chính phủ ban hành Nghị định số 56/NĐ-CP tách huyện Ba Bể thành hai huyện Ba Bể và Pác Nặm. Huyện Ba Bể mới có diện tích là 67.809ha với 46.583 nhân khẩu với 16 đơn vị hành chính trực thuộc. Ngày 10-1-2020, Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành Nghị quyết số 855/NQ-UBTVQH14 sáp nhập xã Cao Trĩ vào xã Thượng Giáo, Sau khi sắp xếp, huyện Ba Bể có 15 đơn vị hành chính cấp xã, gồm 14 xã và 01 thị trấn.
Qua gần 40 năm thực hiện sự nghiệp đổi mới, diện mạo Ba Bể ngày càng khởisắc, đời sống vật chất-tinh thần của đồng bào các dân tộc được nâng cao. Tình hình an ninh chính trị ổn định, trật tự an toàn xã hội được giữ vững. Vai trò lãnh đạo của Đảng bộ và chính quyền huyện ngày càng được tăng cường, khối đại đoàn kết toàn dân được mở rộng. Trước năm 2018, Ba Bể vẫn là một trong những huyện nghèo nhất của tỉnh Bắc Kạn và của cả nước theo Nghị quyết 30a của Chính phủ. Bằng nhiều giải pháp phù hợp, phát huy tiềm năng, thế mạnh của địa phương, chuyển đổi mạnh mẽ cơ cấu cây trồng, vật nuôi, tranh thủ các nguồn lực hỗ trợ của Nhà nước và phát huy nội lực trong nhân dân, đến ngày 7-3-2018, huyện Ba Bể được công nhận thoát nghèo. Công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa và xây dựng nông thôn mới đạt được những thành tựu nổi bật trong đó:
* Công tác xây dựng Đảng, chính quyền và hệ thống chính trị Hệ thống chính trị trong toàn huyện được quan tâm xây dựng, củng cố. Công tác xây dựng Đảng được coi trọng cả về chính trị, tư tưởng và tổ chức. Từ năm 1945 đến nay, Đảng bộ huyện đã tiến hành đại hội 22 lần, chất lượng các kỳ đại hội không ngừng được nâng cao. Đảng bộ huyện hiện có 39 chi, đảng bộ trực thuộc, trong đó có 18 đảng bộ cơ sở và 21 chi bộ cơ sở; số chi bộ trực thuộc đảng bộ cơ sở có 237 chi bộ, 155/155 thôn, tiểu khu có chi bộ sinh hoạt độc lập, không có chi bộ thôn, tiểu khu sinh hoạt ghép. Toàn Đảng bộ hiện có 5.014 đảng viên.
Chất lượng các chi, đảng bộ và đảng viên không ngừng được nâng lên. Số tổ chức cơ sở Đảng đạt trong sạch vững mạnh, tỷ lệ đảng viên đủ tư cách, hoàn thành tốt nhiệm vụ hàng năm đều đạt và vượt chỉ tiêu đề ra. Công tác phát triển đảng được đẩy mạnh, đặc biệt là ở các thôn bản vùng sâu, vùng cao.
Công tác tư tưởng luôn được các cấp ủy Đảng quan tâm chỉ đạo thực hiện. Tình hình tư tưởng của các tầng lớp nhân dân trong huyện ổn định. Cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân chấp hành tốt chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, tích cực lao động sản xuất, phát triển kinh tế để xây dựng quê hương. Trong những năm qua cấp ủy các cấp đã tích cực chỉ đạo triển khai thực hiện nghiêm nghị quyết, kết luận của Trung ương, của tỉnh về công tác xây dựng Đảng; việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh; tích cực đấu tranh với những biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”; xử lý nghiêm cán bộ, đảng viên vi phạm.
Bộ máy chính quyền, đoàn thể thường xuyên được củng cố, kiện toàn, đáp ứng được yêu cầu thực tế của huyện. Đổi mới phương thức hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân, hướng hoạt động về cơ sở nhất là những địa bàn khó khăn, vùng sâu, vùng xa với nhiều hoạt động thiết thực, góp phần vào việc phát triển kinh tế, xóa đói giảm nghèo…
* Kinh tế - xã hội, quốc phòng - an ninh
Hằng năm, cấp uỷ các cấp tập trung lãnh đạo, chỉ đạo công tác quản lý, điều hành ngân sách Nhà nước, các chỉ tiêu thu, chi ngân sách đều vượt so với dự toán giao, đáp ứng được các khoản chi thường xuyên và chi đầu tư. Các chính sách về an sinh xã hội được triển khai thực hiện đầy đủ, kịp thời, đúng đối tượng. Thu ngân sách năm 1997 thu nội địa chỉ được 1 tỷ đồng, đến năm 2024 đạt 54 tỷ đồng, tăng 54 lần so với năm 1997.
Ngành nông-lâm nghiệp có tốc độ tăng trưởng cao, đảm bảo an ninh lương thực, diện tích trồng rùng tăng nhanh, bước đầu đã hình thành một số vùng sản xuất hàng hóa, góp phần quan trọng vào chương trình xóa đói giảm nghèo và thúc đẩy phát triển nông thôn. Tổng sản lượng lương thực có hạt hàng năm đều tăng, từ 25.926 tấn năm 2010 đến năm 2024 đạt 29.561 tấn, lương thực bình quân đầu người đạt 588kg/năm. Tỷ lệ che phủ rừng đạt 67,5%. Năm 2024, tổng đàn gia súc 8.363 con, đàn dê 3.990/4000 con; tổng đàn gia cầm, thủy cầm 199,495/260.000 con. Duy trì và phát triển diện tích mặt nước nuôi trồng thủy sản 143/143 ha, tổng sản lượng cả giai đoạn ước đạt 1.130 tấn. Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới và các chính sách hỗ trợ phát triển sản xuất được triển khai thực hiện rộng khắp, tạo được sự đồng thuận hưởng ứng của Nhân dân tham gia góp phần nâng cao đời sống người dân nông thôn. Đến 2024 toàn huyện có 04 xã và 04 thôn đạt chuẩn nông thôn mới. Số tiêu chí xã nông thôn mới bình quân toàn huyện 13 tiêu chí/xã.
Thực hiện chương trình trọng tâm của Đại hội Đảng bộ huyện lần thứ XXII, nhiệm kỳ 2020 - 2025 "Ưu tiên phát triển nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hóa gắn với du lịch", Ban Chấp hành Đảng bộ huyện đã xây dựng Nghị quyết số 03-NQ/HU ngày 15/12/2020 về phát triển nông, lâm nghiệp giai đoạn 2020-2025, chỉ đạo Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân huyện xây dựng và ban hành Đề án phát triển sản xuất một số cây trồng, vật nuôi có thế mạnh trên địa bàn huyện Ba Bể giai đoạn 2021- 2025 để thực hiện. Trên cơ sở đó, các đơn vị, địa phương đã triển khai 7 mô hình gắn với các cây trồng, vật nuôi có thế mạnh trên địa bàn huyện.
Chương trình Mỗi xã một sản phẩm (OCOP) thực hiện tương đối hiệu quả. Trong giai đoạn 2021-2025, trên địa bàn huyện có 48 sản phẩm OCOP đạt 3 sao đạt 120% mục tiêu kế hoạch đề ra. Một số sản phẩm thông qua chương trình đã trở thành hàng hóa có giá trị kinh tế được thị trường đón nhận như: Chè Mỹ Phương, bí xanh thơm, miến dong, thịt trâu khô, rau bò khai…
Hoạt động thương mại, dịch vụ tiếp tục phát triển, đáp ứng nhu cầu sản xuất và tiêu dùng của nhân dân; hoạt động xúc tiến thương mại được đẩy mạnh; các hộ gia đình, cá nhân từng bước ứng dụng công nghệ thông tin, công nghệ số, tham gia các sàn thương mại điện tử, sử dụng mạng xã hội để quảng bá sản phẩm của địa phương. Tổng mức bán lẻ hàng hóa năm 2024 đạt 684 tỷ đồng, tăng 454 tỷ đồng so với năm 2015.
Thực hiện Chương trình trọng tâm của Đại hội về "tập trung phát triển và khai thác có hiệu quả tiềm năng về du lịch trên địa bàn", Ban Chấp hành Đảng bộ huyện đã ban hành Nghị quyết số 09-NQ/HU ngày 15-8-2021 về phát triển du lịch giai đoạn 2020-2025. Chỉ đạo Hội đồng nhân dân huyện, Ủy ban nhân dân huyện cụ thể hóa thành Đề án để tổ chức thực hiện. Qua đó, hoạt động du lịch có nhiều chuyển biến, cơ sở hạ tầng các khu, điểm du lịch được quan tâm đầu tư. Các hoạt động văn hóa, lễ hội truyền thống, bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa được chú trọng, đặc biệt "Lễ hội Lồng tồng Ba Bể", sự kiện "Sắc thu Hồ Ba Bể" được tổ chức đã tạo được điểm nhấn và trở thành sản phẩm du lịch riêng có của huyện Ba Bể. Công tác xúc tiến, quảng bá hình ảnh, văn hóa, con người Ba Bể được chú trọng và có hiệu quả tích cực. Chú trọng đào tạo, bồi dưỡng nâng cao chất lượng nguồn nhân lực ngành du lịch, nhất là hỗ trợ đào tạo kiến thức cho người dân tham gia phát triển loại hình du lịch cộng đồng. Đặc biệt, Đồ án quy hoạch bảo tồn và phát huy giá trị danh lam thắng cảnh Hồ Ba Bể hiện đang trình Thủ tướng Chính phủ xem xét, phê duyệt. Đây là cơ sở pháp lý quan trọng để đưa lĩnh vực du lịch của huyện ngày càng phát triển.
Từ 1997 đến nay, ngành du lịch huyện có nhiều chuyển biến, đem lại thu nhập cho người dân… Lượng khách đến với du lịch Ba Bể tăng từ 8839 lượt (năm 2002) đến năm 2024 là hơn 170 nghìn lượt, doanh thu 28,4 tỷ đồng, trong 02 tháng đầu năm 2025 lượng khách đến với Ba Bể đạt 115.338 lượt, doanh thu hơn 3.693.910.000 đồng. Cơ sở hạ tầng được tăng cường đầu tư làm cho diện mạo cảnh quan môi trường, nông thôn ngày càng có nhiều đổi mới. Đời sống vật chất tinh thần của nhân dân ở vùng sâu, vùng xa có sự cải thiện rõ rệt. Đến nay, tất cả các xã trong huyện có đường ô tô đến trung tâm xã. Nhiều dự án lớn đã và đang được Trung ương, tỉnh, huyện đầu tư xây dựng như: Quốc lộ 279, ĐT.257B, ĐT258, ĐT254, ĐT253, đường huyện, đường xã... Đến cuối năm 2024, tỷ lệ đường trục xã, liên xã được bê tông và nhựa hóa đạt 100%; tỷ lệ đường thôn, xóm được cứng hóa đạt 50%... Hệ thống điện tiếp tục được đầu tư cải tạo, nâng cấp, cơ bản đáp ứng yêu cầu sản xuất và sinh hoạt. Đến nay, tỷ lệ hộ được sử dụng lưới điện quốc gia đạt 95,61% (11.880/12.310 hộ có điện), hiện nay 04 thôn trắng đang được thi công, dự kiến đến cuối năm 2025 tỷ lệ số hộ được sử dụng điện trên địa bàn huyện khoảng 98,3%.
Lĩnh vực văn hóa xã hội có bước phát triển mới. Công tác giáo dục - đào tạo phát triển cả về quy mô và chất lượng đào tạo. Toàn huyện có 40 trường trực thuộc, hàng năm tỷ lệ huy động các cháu ở độ tuổi mẫu giáo ra lớp đạt 99,92%, tuyển vào lớp 1 đạt 100%. Chất lượng giáo dục có nhiều chuyển biến tích cực so với năm học 1996-1997, học sinh phát huy được các phẩm chất, năng lực trong quá trình học tập. Không còn tình trạng học sinh tiểu học bỏ học. Đối với giáo dục THCS: Việc tổ chức thực hiện dạy học theo Chương trình GDPT 2018 được đảm bảo có nền nếp. Chất lượng giáo dục tiếp tục có nhiều chuyển biến tích cực, học sinh phát huy được các phẩm chất, năng lực trong quá trình học tập. Tỷ lệ học sinh tốt nghiệp THCS năm học 2023-2024 (đạt 100%) tăng 5,48% so với năm học 1996-1997 (đạt 94,52%). Đối với giáo dục thường xuyên: Công tác phổ cập giáo dục được quan tâm có nhiều chuyển biến tích cực so với năm học 1996-1997, phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ 5 tuổi; đạt chuẩn phổ cập giáo dục tiểu học mức độ 3; đạt chuẩn phổ cập giáo dục THCS mức độ 2 (trong khi đó, năm 1997 chỉ có 04/16 xã đạt chuẩn phổ cập giáo dục tiểu học đúng độ tuổi; 10/16 xã đạt chuẩn phổ cập giáo dục THCS).
Công tác y tế, chăm sóc sức khỏe nhân dân được chú trọng. Đến nay 15/15 trạm y tế được xây dựng mới và nâng cấp. Công tác bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em được quan tâm thực hiện, trẻ dưới 01 tuổi tiêm đủ vacxin phòng bệnh hàng năm đều đạt trên 99,53%. Tỷ lệ trẻ em suy dinh dưỡng giảm mỗi năm giảm trung bình 1,5% đến năm 2024 còn 10,6% . Công tác thường trực cấp cứu, khám chữa bệnh được các cơ sở y tế duy trì ôn định đảm bảo công tác khám chữa bệnh cho người dân. Đội ngũ cán bộ y tế từ huyện đến cơ sở được nâng cao trình độ chuyên môn và y đức, bắt đầu từ năm 2010: có 02 xã đạt bộ tiêu chí quốc gia về y tế xã (xã Hoàng trĩ, xã Bành Trạch), năm 2012 có thêm 02 xã đạt chuẩn quốc gia về y tế xã (xã Mỹ Phương, xã Hà Hiệu), năm 2013 thêm 03 xã (Khang Ninh, Quảng Khê, Chu Hương), năm 2015 thêm 04 xã (Cao Thượng, Địa Linh, Phúc Lộc, Yến Dương), Năm 2016 thêm xã Đồng Phúc đạt chuẩn quốc gia về y tế xã, năm 2017 có thêm 02 xã (xã Nam Mẫu, xã Thượng Giáo), thị trấn đạt bộ tiêu chí quốc gia năm 2018. Những năm tiếp theo đơn vị tiếp tục tham mưu chỉ đạo triển khai thực hiện duy trì xã đạt bộ tiêu chí Quốc gia về y tế xã đến tời điểm hiện tại 15 xã thị trấn đạt bộ tiêu chí quốc gia về y tế xã. đến năm 2024 số lượng bác sỹ hiện có của toàn huyện 8,1/vạn dân.
Công tác hoạt động văn hóa, thể thao có nhiều khởi sắc. Duy trì và tổ chức tốt các lễ hội truyền thống của dân tộc. Triển khai thực hiện tốt công tác vận động, tuyên truyền thực hiện phong trào ‘‘Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa’’ và cuộc vận động ‘‘Toàn dân đoàn kết xây dựng nông thôn mới, đô thị văn minh’’, kết quả đến năm 2000 có 3877/8710 hộ gia đình đạt danh hiệu gia đình văn hóa, đạt 37,5%; đến năm 2024 toàn huyện có 11.106/12.343 hộ gia đình đạt danh hiệu gia đình văn hóa đạt tỷ lệ 90% (Tăng 52,5%). Số khu dân cư đạt danh hiệu văn hóa ngày càng cao: Năm 2000 có 42/197 khu dân cư đạt danh hiệu khu dân cư văn hóa đạt tỷ lệ 21,3%; Năm 2024 có 158/179 thôn, tiểu khu đạt danh hiệu “Thôn, tổ dân phố văn hóa” đạt tỷ lệ 88,3%. (tăng 67%).
Công tác giải quyết việc làm, xóa đói giảm nghèo được quan tâm thực hiện và thu được những thành tựu quan trọng, tỷ lệ hộ nghèo giảm từ 63% năm 1998 (theo tiêu chí cũ), đến năm 2024 còn 22,11%, bình quân mỗi năm giảm 1,57% (chuẩn nghèo đa chiều), đời sống của đại bộ phận nhân dân được cải thiện và nâng cao.
Công tác quốc phòng, an ninh được tăng cường, thế trận quốc phòng toàn dân và an ninh nhân dân được xây dựng, củng cố vững chắc. Tình hình an ninh chính trị được giữ vững, trật tự an toàn xã hội trên địa bàn huyện ổn định, góp phần thực hiện thắng lợi nhiệm vụ phát triển kinh tế xã hội của địa phương.
Với những kết quả đã đạt được trong thời gian vừa qua nhất là từ năm 1997 đến nay, cùng với các địa phương khác trong tỉnh huyện Ba Bể đã góp phần tạo nên những thành tựu của tỉnh Bắc Kạn.
2. Những thành tựu nổi bật của tỉnh
* Giai đoạn 1945 - 1996
Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp bùng nổ, Bắc Kạn trở thành trung tâm của chiến khu Việt Bắc. Nơi đây, đồng bào các dân tộc đã chia ngọt, sẻ bùi, không tiếc máu xương, một lòng trung kiên theo cách mạng. Trong kháng chiến gian khổ, đồng bào Bắc Kạn kiên cường dũng cảm, vừa làm nhiệm vụ hậu phương, vừa trực tiếp tham gia kháng chiến, làm nên thắng lợi vẻ vang, đưa Bắc Kạn trở thành địa phương đầu tiên của cả nước được giải phóng trong kháng chiến chống thực dân Pháp (tháng 8-1949).
Sau giải phóng, Đảng bộ, chính quyền và Nhân dân các dân tộc tỉnh Bắc Kạn đã cùng với Nhân dân cả nước thực hiện nhiệm vụ vừa kháng chiến, vừa kiến quốc, tập trung xây dựng hậu phương vững mạnh; khôi phục kinh tế, xã hội, ổn định đời sống Nhân dân. Bắc Kạn đã hoàn thành nghĩa vụ hậu phương với tiền tuyến, cùng với Nhân dân cả nước giành thắng lợi to lớn trong chiến cuộc Đông Xuân 1953-1954, đỉnh cao là chiến dịch lịch sử Điện Biên Phủ, kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược.
Sau ngày hòa bình lập lại trên miền Bắc (1954), Đảng bộ, chính quyền và Nhân dân tỉnh Bắc Kạn tiếp tục khôi phục, cải tạo và phát triển kinh tế xã hội chủ nghĩa; vừa sản xuất, vừa chiến đấu, phục vụ chiến đấu, chi viện sức người, sức của cho tiền tuyến lớn miền Nam, góp phần vào thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Trong quá trình kháng chiến chống Mỹ cứu nước, trước yêu cầu nhiệm vụ chính trị trong tình hình mới, ngày 21-4-1965, Ủy ban Thường vụ Quốc hội phê chuẩn việc hợp nhất hai tỉnh Bắc Kạn và Thái Nguyên thành tỉnh Bắc Thái.
Trong giai đoạn 1965-1996, cùng với nhân dân trong tỉnh, đồng bào các dân tộc Bắc Kạn đã tích cực lao động sản xuất, ổn định đời sống, tham gia chiến đấu góp phần đánh bại cuộc chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ, tiếp tục chi viện sức người, sức của cho cách mạng miền Nam; xây dựng và phát triển kinh tế - xã hội.
* Giai đoạn từ 1997 đến nay
Khi mới tái lập tỉnh Bắc Kạn gặp rất nhiều khó khăn, với xuất phát điểm thấp, tình hình kinh tế - xã hội kém phát triển, tốc độ tăng trưởng kinh tế chậm do đặc trưng là kinh tế thuần nông; công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp chưa phát triển. Thu ngân sách thấp, chưa đáp ứng 10% nhu cầu chi toàn tỉnh. Cơ sở vật chất, hạ tầng kỹ thuật thấp kém, nhà cửa, phương tiện làm việc, phương tiện đi lại thiếu thốn, đường giao thông khó khăn. Toàn tỉnh có 6 huyện, thị và 112 xã, phường, thị trấn, trong đó có 16 xã chưa có đường ô tô, 16 xã khác ô tô chỉ đến được trong mùa khô; 2 huyện và 102 xã chưa có điện lưới quốc gia, 93 xã chưa có điện thoại. Trình độ dân trí thấp, với 36 % số xã chưa đạt chuẩn quốc gia về phổ cập giáo dục tiểu học và xóa mù chữ; đời sống nhân dân còn nhiều khó khăn, nhiều tập tục và phương thức canh tác còn lạc hậu, tỷ lệ đói nghèo trên 50% số hộ dân. Bộ máy tổ chức các cơ quan mới bắt đầu củng cố, sắp xếp đi vào hoạt động vừa thiếu, vừa không đồng bộ. Trong 112 xã, phường, thị trấn đã có 103 xã thuộc diện đặc biệt khó khăn.
Trải qua chặng đường 28 năm, được sự quan tâm của Đảng, Nhà nước, các bộ, ban, ngành Trung ương, Đảng bộ, chính quyền tỉnh Bắc Kạn đã lãnh đạo nhân dân các dân tộc trong tỉnh phát huy truyền thống quê hương căn cứ địa cách mạng, đoàn kết nhất trí, vượt qua mọi khó khăn gian khổ, lao động cần cù, sáng tạo, nỗ lực vươn lên đạt được nhiều thành tựu quan trọng, thực hiện tốt mục tiêu phát triển kinh tế, đảm bảo an sinh xã hội và giảm nghèo bền vững.
Công tác xây dựng Đảng, chính quyền và hệ thống chính trị. Trong những năm qua, công tác xây dựng Đảng luôn được tỉnh quan tâm thực hiện trên tất cả các mặt: Chính trị, tư tưởng, đạo đức, tổ chức và cán bộ. Khi mới tái lập, Đảng bộ tỉnh có 9 đảng bộ trực thuộc, với 299 tổ chức cơ sở đảng và 11.102 đảng viên. Đến nay, toàn Đảng bộ tỉnh đã có 11 đảng bộ trực thuộc, 425 tổ chức cơ sở đảng với 37.518 đảng viên, chiếm hơn 11% dân số. Chất lượng đảng viên mới kết nạp được nâng lên, nhất là trình độ học vấn cao ngày càng tăng đã góp phần làm tăng thêm nguồn sinh lực cho Đảng, nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của các tổ chức đảng và đảng viên.
Phương thức lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng bộ tỉnh từng bước được đổi mới; hoạt động của chính quyền các cấp ngày càng hiệu lực, hiệu quả, phát huy được quyền làm chủ của Nhân dân. Công tác vận động quần chúng có nhiều chuyển biến, tiến bộ. Công tác tư tưởng và giáo dục lý luận chính trị được thực hiện tích cực, gắn với đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị. Qua đó đã kịp thời phát hiện, biểu dương, nhân rộng gương điển hình tiên tiến, mô hình hoạt động hiệu quả, khơi dậy niềm tự hào của quê hương cách mạng, từ đó tạo sức lan tỏa tới từng cán bộ, đảng viên và nhân dân. Công tác kiểm tra, giám sát của Đảng được đặc biệt quan tâm đã góp phần quan trọng vào việc đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến, tự chuyển hóa” trong nội bộ và đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực; giữ gìn sự đoàn kết, thống nhất, trong sạch và giữ vững nguyên tắc, kỷ luật, kỷ cương của Đảng.
Công tác tổ chức bộ máy, cán bộ và phát triển đảng hiện nay được cấp ủy các cấp quan tâm chỉ đạo thực hiện, có nhiều đổi mới, chuyển biến. Tỉnh ủy đã quyết liệt chỉ đạo, triển khai thực hiện việc đổi mới, sắp xếp, kiện toàn tổ chức bộ máy, tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả, tinh giản biên chế. Bộ máy chính quyền, đoàn thể thường xuyên được củng cố, kiện toàn, đáp ứng được yêu cầu thực tế của địa phương. Hoạt động của mặt trận tổ quốc và các hội, đoàn thể ngày càng phát huy được vai trò tập hợp, xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân, tăng cường sự nhất trí về chính trị và tinh thần trong Nhân dân; tuyên truyền, động viên đoàn viên, hội viên và các tầng lớp nhân dân phát huy quyền làm chủ, thực hiện tốt chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước.
Kinh tế - xã hội, quốc phòng - an ninh. Sau 28 năm tái lập, tỉnh Bắc Kạn đã có những bước chuyển mình mạnh mẽ. Từ một nền kinh tế với quy mô nhỏ, thấp nhất trong khu vực, qua 28 năm xây dựng, phát triển, quy mô nền kinh tế của tỉnh Bắc Kạn đã có bước tiến quan trọng. Tổng sản phẩm GRDP năm 2024 theo giá so sánh ước đạt 9.531 tỷ đồng. GRDP bình quân đầu người đạt 57,4 triệu đồng, đạt 102% kế hoạch, tăng gấp 45,92% so với năm 1997. Độ che phủ rừng của tỉnh đạt 73,38%, Bắc Kạn trở thành địa phương có độ che phủ rừng cao nhất cả nước. Thu ngân sách năm 2024 đạt 930,3 tỷ đồng (bằng 100% dự toán Trung ương giao) tăng hơn 55,7 lần so với năm 1997. Tốc độ tăng trưởng kinh tế đạt 6,35%, xếp thứ 6/14 tỉnh trong vùng Trung du và miền núi phía Bắc. Trong đó, nông - lâm nghiệp - thuỷ sản tăng 4,1%; công nghiệp - xây dựng tăng 9,6% (công nghiệp tăng 12,3%; xây dựng tăng 8%); dịch vụ tăng 6,4%. Giá trị sản xuất công nghiệp ước đạt 1.900 tỷ đồng, đạt 100% kế hoạch, tăng 8,1% so với cùng kỳ năm trước. Được đánh giá có trữ lượng lớn khoáng sản kim loại màu trong khu vực, ngành công nghiệp của Bắc Kạn đã có những tăng trưởng nhất định. Công nghiệp chế biến của tỉnh cũng mang lại giá trị cao. Cơ cấu ngành công nghiệp chuyển dịch mạnh từ công nghiệp khai khoáng sang công nghiệp chế biến, năng lực sản xuất công nghiệp của tỉnh được nâng lên rõ rệt; nhiều cơ sở, nhà máy sản xuất công nghiệp được đầu tư và đi vào hoạt động ổn định, tạo tiền đề cho phát triển công nghiệp trong những năm tiếp theo.
Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới và Chương trình OCOP được các cấp, ngành tập trung chỉ đạo thực hiện. Đến nay, có 1 đơn vị cấp huyện hoàn thành xây dựng nông thôn mới; toàn tỉnh hiện có 28 xã và 74 thôn đạt chuẩn nông thôn mới, 04 xã đạt chuẩn nông thôn mới nâng cao; bình quân cả tỉnh đạt 12,79 tiêu chí/xã. Chương trình mỗi xã, phường một sản phẩm (OCOP) được các cấp, các ngành tích cực chỉ đạo thực hiện; tổ hỗ trợ chủ thể OCOP nâng cao năng lực sản xuất, nhà xưởng, vùng nguyên liệu, sản phẩm... Hiện nay, tỉnh có hơn 230 sản phẩm OCOP trong đó có 199 sản phẩm OCOP 3 sao, 18 sản phẩm OCOP 4 sao, 01 sản phẩm OCOP 5 sao.14
Cơ sở hạ tầng được tăng cường đầu tư làm cho diện mạo cảnh quan môi trường, nông thôn, đô thị ngày càng có nhiều khởi sắc, đổi thay, giao thông đi lại thuận lợi. Đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân kể cả đồng bào ở vùng cao, vùng sâu, vùng xa, vùng dân tộc thiểu số được cải thiện rõ rệt.
Văn hóa, xã hội có bước phát triển mới: Lĩnh vực giáo dục, đào tạo có nhiều chuyển biến tiến bộ. Công tác phổ cập giáo dục, xóa mù chữ tiếp tục được duy trì thực hiện; chất lượng giáo dục ngày càng được nâng cao. Công tác khám chữa bệnh, chăm sóc sức khỏe nhân dân được quan tâm. Công tác quản lý, sử dụng quỹ khám chữa bệnh bảo hiểm y tế được đảm theo quy định; tỷ lệ người dân tham gia bảo hiểm y tế đạt 97%. Hoạt động văn hoá, thể dục, thể thao diễn ra sôi nổi ở các địa phương. Phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá” tiếp tục phát triển cả về quy mô và chất lượng. Các cơ quan thông tin, truyền thông đã tuyên truyền đầy đủ, kịp thời các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, góp phần nâng cao nhận thức, định hướng dư luận, tạo sự đồng thuận trong xã hội. Công tác giải quyết việc làm, xóa đói giảm nghèo được quan tâm thực hiện và thu được những kết quả quan trọng, tỷ lệ hộ nghèo giảm từ 50% năm 1997 xuống còn hơn 19% năm 2024, đời sống của đại bộ phận đồng bào các dân tộc trong tỉnh được cải thiện và nâng cao.
Công tác quốc phòng, an ninh được tăng cường, thế trận quốc phòng toàn dân và an ninh nhân dân được xây dựng, củng cố vững chắc. Tình hình an ninh chính trị được giữ vững, trật tự an toàn xã hội trên địa bàn cơ bản ổn định tạo môi trường lành mạnh để thu hút đầu tư, phát triển sản xuất kinh doanh, góp phần thực hiện thắng lợi nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội của địa phương.
***
80 năm đã trôi qua, nhưng giá trị lịch sử của sự kiện thành lập chính quyền cấp huyện đầu tiên tại châu Trưng Vương (châu Chợ Rã) - huyện Ba Bể ngày nay vẫn còn trường tồn mãi với thời gian. Trân trọng, tự hào, tiếp nối truyền thống trên quê hương cách mạng, Đảng bộ, chính quyền và Nhân dân các dân tộc trong tỉnh quyết tâm phấn đấu, đoàn kết, ra sức thi đua, học tập, lao động, sáng tạo, xây dựng Bắc Kạn ngày càng giàu đẹp, văn minh./.
 

Tác giả: Công an tỉnh Bắc Kạn

Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá

  Ý kiến bạn đọc

Những tin mới hơn

Những tin cũ hơn

Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây
EMC Đã kết nối EMC