Liên quan đến định mức ăn của người bị tạm giữ, người bị tạm giam, Điều 4, Nghị định quy định như sau: Định mức ăn trong một tháng của người bị tạm giam gồm 17kg gạo tẻ loại trung bình, 0,5kg đường loại trung bình, 15kg rau, 0,7kg thịt, 0,8kg cá, 1kg muối, 0,75 lít nước chấm, 0,1kg bột ngọt và chất đốt tương đương 17kg củi hoặc 15kg than, 45kw/h điện, 3m3 nước để đảm bảo phục vụ ăn, uống, sinh hoạt của người bị tạm giữ, người bị tạm giam.
Định mức ăn của người bị tạm giữ được tính theo ngày trên cơ sở định mức ăn của người bị tạm giam. Định mức trên do Nhà nước cấp và quy ra tiền theo thời giá thị trường ở địa phương nơi có cơ sở giam giữ. Định mức ăn của người bị tạm giữ, người bị tạm giam ốm đau, bệnh tật, thương tích do thủ trưởng cơ sở giam giữ quyết định theo chỉ định của cơ sở y tế điều trị nhưng không quá 2 lần so với tiêu chuẩn ăn ngày thường.
Người bị tạm giữ, người bị tạm giam là phụ nữ có thai hoặc đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi được hưởng định mức ăn như người bị tạm giữ, người bị tạm giam khác và được ăn tăng thêm 30% định lượng về thịt, cá. Người bị tạm giữ, người bị tạm giam sinh con được thanh toán viện phí và bồi dưỡng bằng hiện vật trị giá tương đương 30kg gạo tẻ trung bình.
Ngoài tiêu chuẩn ăn quy định tại khoản 1 Điều này, người bị tạm giữ, người bị tạm giam được sử dụng quà, tiền gửi lưu ký để ăn thêm nhưng không quá 3 lần tiêu chuẩn ăn ngày đường.
Định mức ăn đối với người bị tạm giữ, người bị tạm giam là người ngoài thực hiện như quy định đối với người tạm giữ, người bị tạm giam là người Việt Nam; trong trường hợp điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên có quy định khác thì áp dụng theo điều ước quốc tế đó.
Trường hợp vì lý do đối ngoại khác sẽ do thủ trưởng cơ sở giam giữ quyết định.
Tác giả: Nguyễn Hương
Nguồn tin: http://cand.com.vn
Ý kiến bạn đọc
Những tin mới hơn
Những tin cũ hơn