Những hành vi bị cấm theo quy định của Luật An ninh mạng gồm:
1, Các hành vi chống phá Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam như thông tin kích động, biểu tình trái pháp luật, kích động gây rối an ninh, trật tự.
2, Các hành vi xuyên tạc lịch sử, phủ nhận thành tựu cách mạng, phá hoạt khối đại đoàn kết dân tộc, xúc phạm tôn giáo, phân biệt đối xử về giới, phân biệt chủng tộc;
3, Các hành vi phát tán thông tin gây hại cho tổ chức, cá nhân, gồm: Thông tin sai sự thật gây hoang mang trong nhân dân, gây thiệt hại cho hoạt động kinh tế - xã hội, gây khó khăn cho hoạt động của cơ quan Nhà nước hoặc người thi thành công vụ, xâm phạm quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân khác;
4, Các hành vi xâm phạm trật tự an toàn xã hội như sử dụng không gian mạng để hoạt động mại dâm, tệ nạn xã hội, mua bán người; đăng tải thông tin dâm ô, đồi trụy, tội ác; phá hoại thuần phong, mỹ tục của dân tộc, đạo đức xã hội, sức khỏe cộng đồng, xúi giục, lôi kéo, kích động người khác phạm tội.
5, Các hành vi tấn công mạng, gián điệp mạng, khủng bố mạng.
6, Các hành vi lợi dụng quy định này của lực lương chuyên trách để thực hiện hành vi vi phạm pháp luật.
Công dân có quyền làm những điều mà pháp luật không cấm khi tham gia vào không gian mạng. Không gian mạng là một miền mới, tuy “ảo” nhưng hành vi diễn ra có thể mang lại kết quả thực, một bộ phần quần chúng nhân dân còn bỡ ngỡ, chưa nhận thức được tính chất hai mặt của không gian mạng. Luật An ninh mạng tạo điều kiện cho quần chúng nhân dân tham gia hoạt động trên không gian mạng thấy được những gì nên làm, những gì không nên làm.
Một mặt, quần chúng nhân dân được bảo vệ khi tham gia hoạt động trên không gian mạng trước các thông tin xấu độc, xâm phạm tới danh dự, uy tín, nhân phẩm, các hoạt động tấn công mạng, gián điệp mạng, khủng bố mạng hoặc các hành vi khác gây ảnh hưởng tới quyền và lợi ích hợp pháp của mình.
Mặt khác, quần chúng nhân dân được tham gia, thừa hưởng các chính sách về an ninh mạng của Nhà nước như: Nghiên cứu, phát triển an ninh mạng; nâng cao năng lực tự chủ về an ninh mạng; giáo dục, bồi dưỡng kiến thức về an ninh mạng. Đồng thời, được trao công cụ để bảo vệ quyền lợi của mình. Đó là các quy định tại Điều 16 (xử lý thông tin về vi phạm pháp luật), Điều 17 (bảo vệ người dân trước các hoạt động gián điệp mạng, bảo vệ bí mật cá nhân, bí mật gia đình và đời sống riêng tư trên không gian mạng), Điều 18 (bảo vệ người dân khỏi các hoạt động tội phạm mạng, như chiếm đoạt tài sản, trộm cắp thẻ tín dụng, tài khoản ngân hàng), Điều 19 (trao công vụ để bảo vệ người dân khỏi hoạt động tấn công mạng, như phát tán mã độc, tấn công từ chối dịch vụ…).
Tác giả: Phạm Tấn
Nguồn tin: http://cand.com.vn
Ý kiến bạn đọc
Những tin mới hơn
Những tin cũ hơn