Nhẫn cưới từ lâu là biểu tượng của hôn nhân, sự ràng buộc giữa hai con người, của tình yêu lâu dài, bền vững. Thông thường, ngón tay đeo nhẫn cưới được xác định là ngón áp út.
Tuy nhiên ở mỗi quốc gia khác nhau, nhẫn cưới lại được đeo ở các bên tay khác nhau, tay trái hoặc tay phải. Ngón tay đeo nhẫn còn ẩn chứa những phong tục, tập quán, nét văn hoá, tiến trình lịch sử của mỗi quốc gia.
Người La Mã và Ai Cập cổ đại tin rằng, ngón tay đeo nhẫn có dây thần kinh hoặc tĩnh mạch nối trực tiếp với trái tim. Người La Mã thậm chí còn đặt tên cho sợi dây kết nối này là “mạch tình yêu”. Nếu một người đeo nhẫn vào ngón tay đeo nhẫn có nghĩa rằng trái tim họ đã có chủ.
Ngón tay có “mạch tình yêu ” này được xác định là ngón tay áp út. Người Ai Cập cổ đại cho rằng các ngón tay trên một bàn tay biểu trưng cho các mối quan hệ quan trọng của mỗi người.
Theo đó ngón tay cái tượng trưng cho bố mẹ, ngón trỏ là anh/chị/em, ngón giữa chính là bạn, ngón tay đeo nhẫn là bạn đời và ngón út là con cái của bạn.
Truyền thống đeo nhẫn cưới bên tay phải xuất hiện từ thời La Mã cổ đại.
Quốc gia nào đeo nhẫn tay phải?
Người La Mã cổ đại là dân tộc đầu tiên đeo nhẫn cưới bên tay phải. Họ cho rằng tay trái là không hạnh phúc và không đáng tin.
Nhiều năm trước đây, quan niệm này đã trở thành phong tục của người Ấn Độ. Người Ấn đeo nhẫn cưới bên tay phải vì cho rằng tay trái là bàn tay “không thuần khiết”. Tuy nhiên, ngày nay các cặp đôi có thể tự do đeo nhẫn bên tay trái hoặc tay phải tuỳ thích.
Ở Đức và Hà Lan, các cặp đôi đeo nhẫn đính hôn bên tay trái, còn nhẫn cưới bên tay phải để thể hiện sự thay đổi về tình trạng hôn nhân.
Còn theo phong tục của người Do Thái, nhẫn đính hôn và nhẫn cưới đều được đeo trên cùng một bàn tay đó là tay phải. Nhẫn đính hôn được đeo ở ngón trỏ, còn nhẫn cưới đeo ở ngón áp út.
Một số nước đeo nhẫn cưới bên tay phải gồm: Nga, Na Uy, Đan Mạch, Áo, Ba Lan, Bun-ga-ri, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, Bỉ, Ukraina, Georgia, Serbia, Hy Lạp, Latvia, Hungary, Colombia, Cuba, Peru, Venezuela.
Xu hướng đeo nhẫn cưới bên tay trái bắt đầu từ thế kỷ 18.
Dân tộc nào đeo nhẫn tay trái?
Truyền thống đeo nhẫn cưới bên tay trái xuất hiện từ đầu thế kỷ 18. Trước đó, ngay cả các quốc gia nói tiếng Anh đều đeo nhẫn cưới bên tay phải.
Một bài báo năm 1869 lý giải rằng, một số quốc gia đổi tay đeo nhẫn từ phải sang trái để thể hiện sự tôn trọng của người phụ nữ với người chồng của mình (thời kỳ đó đàn ông không đeo nhẫn cưới).
Ở Lebanon, Thổ Nhĩ Kỳ, Syria và Brazil, nhẫn cưới sẽ được đeo bên tay phải trước khi thành hôn, sau đám cưới chiếc nhẫn sẽ được chuyển sang tay trái.
Hiện các quốc gia có truyền thống đeo nhẫn cưới bên tay trái gồm: Úc, Canada, Botswana, Ai Cập, Ai Len, New Zealand, Nam Phi, Anh, Mỹ, Pháp, Italia, Thụy Điển, Phần Lan, Cộng hoà Séc, Thụy Sỹ, Romania, Slovenia, Croatia và hầu hết các quốc gia ở châu Á.
Ngón tay đeo nhẫn cưới là ngón áp út. Người ta tin rằng, ngón áp út có “mạch tình yêu” nối thẳng tới tim.
Sự thật thú vị về nhẫn cưới
Ở Sri Lanka, chú rể đeo nhẫn cưới bên tay phải, còn cô dâu đeo nhẫn bên tay trái.
Hầu hết các quốc gia Hồi giáo đều không đeo nhẫn cưới. Hôn lễ của các cặp đôi hồi giáo cũng không có màn trao đổi nhẫn cưới. Tuy nhiên vẫn có một số quốc gia hồi giáo chấp nhận phong tục đeo nhẫn như Iran (đeo nhẫn bên tay trái), Jordan (đeo nhẫn bên tay phải).
Ở một số quốc gia đeo nhẫn bên tay trái, sau khi người vợ/người chồng mất, chiếc nhẫn của người qua đời sẽ được người còn sống đeo bên tay phải để thể hiện sự gắn kết không thể chia lìa giữa hai vợ chồng .
Trước chiến tranh thế giới thứ II, đàn ông không đeo nhẫn cưới. Trong chiến tranh, những người lính bắt đầu đeo nhẫn để nhắc nhở họ có người vợ yêu ở nhà đang chờ đợi họ trở về. Từ đó đàn ông mới bắt đầu đeo nhẫn cưới.
Tác giả: Theo Kim Minh
Nguồn tin: http://dantri.com.vn
Ý kiến bạn đọc
Những tin mới hơn
Những tin cũ hơn